Ở Trung Quốc cổ đại, các triều đại thay đổi thường xuyên, các trật tự chính quyền khác nhau lần lượt xuất hiện, mỗi triều đại đều có những sản phẩm văn hóa và tư tưởng độc đáo của riêng mình, thậm chí còn có sự khác biệt về tư tưởng và văn hóa của các giai cấp khác nhau trong cùng một thời kỳ.
Nhà Tây Hán có tổng cộng 12 vị Hoàng đế và triều đại này trị vì tổng cộng 210 năm. Nhà Tây Hán rất mạnh về kinh tế, văn hóa, quân sự và các mặt khác, đặc biệt là sự phát triển khoa học và công nghệ của nhà Tây Hán chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử Trung Quốc, lấy “tấm gương soi qua mặt trời” làm ví dụ. Gương đồng xuất hiện trong lịch sử hơn 4000 năm trước, được ứng dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày, người ta dùng nó để trang điểm, đính vàng và nó đã trở thành một vật không thể thiếu. Nhưng có một loại gương trong lịch sử không chỉ dùng để trang điểm, nó còn có một cái tên khác: “Gương chiếu yêu”.
“Gương chiếu yêu” được đúc vào giữa và cuối thời Tây Hán, khi các nguyên lý quang học và cơ học chưa thành hệ thống, loại gương này có thể gọi là kỳ tích trong vật lý học. Vào giữa đến cuối những năm 1970, chiếc “Gương chiếu yêu” đầu tiên được khai quật từ ngôi mộ cổ của nhà Tây Hán, Giang Tây, có đường kính 7,4 cm và trọng lượng tịnh khoảng 50 gam, một chiếc gương cầm tay bằng đồng tinh xảo, hoa văn trên đó không hoa lệ, chỉ có một hàng chữ ở mặt sau viết “Nhìn thấy ánh sáng của mặt trời, thế giới tươi sáng”, đây cũng là dòng chữ rất phổ biến trên gương vào thời nhà Hán.
Điều thực sự đặc biệt ở đây là khi nguồn sáng chiếu vào mặt trước của gương đồng, một số ánh sáng sẽ được phản chiếu. Nhưng trong trường hợp ánh sáng thuận lợi, hình ảnh phản chiếu thực sự là những hoa văn và chữ khắc ở mặt sau của gương đồng, cho thấy một ma lực đáng kinh ngạc – truyền ánh sáng.
“Gương truyền ánh sáng” giống như nguồn sáng xuyên qua gương đồng từ phía sau, người xưa luôn coi loại gương này là “Gương chiếu yêu”, còn người phương Tây gọi thẳng là “gương thần”. Thật đáng tiếc khi công nghệ sản xuất “gương truyền ánh sáng” đã bị thất truyền vào thời nhà Tống hàng nghìn năm trước. Tuy nhiên, trong số hàng chục nghìn chiếc gương đồng ở Bảo tàng Thượng Hải, chỉ có 4 chiếc có thể truyền ánh sáng và chúng đều là sản phẩm của nhà Hán, có thể gọi là bảo vật vô giá.
Các chuyên gia cũng cho biết, công nghệ chế tạo gương truyền sáng khó đến mức hiện nay vẫn chưa thể nhân rộng. Các nhà khoa học hiện đại sau khi nghiên cứu cũng đưa ra kết luận tương tự: Độ truyền sáng của gương đồng là do độ dày bề mặt phân bố không đồng đều, nhưng sự chênh lệch không đồng đều này chỉ vài micron, mắt thường không nhìn thấy được.
Trên thực tế, mặc dù phương pháp cổ xưa đã thất truyền nhưng người ta vẫn tìm ra bí ẩn của nó. Về mặt lý thuyết, khi đánh bóng bề mặt gương lồi, đầu tiên đánh bóng từ ngoại vi vào tâm, khi độ dày được đánh bóng đến một mức nhất định sẽ sinh ra biến dạng đàn hồi do đông đặc và co ngót, đồng thời sẽ xảy ra hiện tượng chồng chất biến dạng đàn hồi giữa bề mặt gương và hoa văn ở mặt sau, dưới độ cong tương ứng, hiệu ứng “truyền sáng” xuất phát từ điều này.
Đăng Dũng biên dịch
Nguồn: soundofhope (Lý Tĩnh Nhu)
Vạn Điều Hay